Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu không thể thiếu của người dân. Từ khi ra đời đến nay Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến hoạt động tôn giáo và ban hành những chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là tôn trọng và đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật.
Từ khi nước ta giành được độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ vào ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, quan điểm mang tính nguyên tắc trong chính sách tôn giáo của Việt Nam: “Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng, tự do và lương - giáo đoàn kết”. Để thể chế quan điểm đó, ngày 14/6/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 234/SL, gồm 5 chương, 16 điều. Đây văn bản pháp quy đầu tiên, quy định trách nhiệm của Chính phủ trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân và trách nhiệm, nghĩa vụ của chức sắc tôn giáo và tín đồ về hoạt động tôn giáo tại Việt Nam.
Hơn 20 năm qua, quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng, Nhà nước ta thể hiện trên nguyên tắc Hiến định trong các văn bản Hiến pháp từ năm 1946 đến Hiến pháp sửa đổi năm 2013, thể hiện quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo. Đảng ta khẳng định “Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng với dân tộc”, đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc là yêu cầu quan trọng của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (bổ sung, phát triển năm 2011) ghi rõ: Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh, xử lý nghiêm đối với mọi hoạt động vi phạm tự do, tín ngưỡng tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Nhà nước và Nhân dân.
Nghị định số 69/NĐ-HĐBT, ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về các hoạt động tôn giáo được xem là văn bản mở đầu trong các văn bản về tín ngưỡng, tôn giáo. Đến ngày 04/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 37-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tôn giáo của Chính phủ, cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước. Sau đó hàng loạt các văn bản khác được ban hành như: Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19/4/1999 của Chỉnh phủ quy định về hoạt động tôn giáo; Quy định số 125/QĐ-TTg, ngày 18/6/2003 Thủ tướng Chỉnh phủ về việc phê duyệt chương trình hoạt động của Chỉnh phủ thực hiện Nghi quyết Trung ương 7 (Khóa IX) về công tác tôn giáo; Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị quyết số 25/NQ-TW, ngày 12/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo; Pháp lệnh số 21/2004/PL-UBTVQH11 “Quy định về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo”; Nghị định số 22/2005/NĐ-CP, ngày 01/3/2002 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 1940/CT-TTG, ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà đất liên quan đến tôn giáo; Hiếp pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 25) và Luật tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 2, ngày 18/11/2016. Luật này, đã cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân liên quan đến quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người. Những nội dung mới của Luật tín ngưỡng, tôn giáo cũng được bổ sung để tạo ra sự tương thích với luật pháp quốc tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng với quốc tế, ký kết và thi hành nhiều hiệp định. Những chủ trương, chính sách, pháp luật nêu trên góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn công tác tín ngưỡng, tôn giáo đòi hỏi trong thời gian qua.
Thực tế từ năm 2003 cho đến nay, số lượng chức sắc, chức việc các cơ sở thờ tự tăng lên đáng kể, phản ánh nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của Nhân dân. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ năm 2003 cả nước có 06 tôn giáo, 15 tổ chức với 17 triệu tín đồ, khoảng 20 nghìn cơ sở thờ tự; 34 nghìn chức sắc, 78 nghìn chức việc. Đến năm 2022, Nhà nước đã ghi nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau với khoảng 27 triệu tín đồ, trên 53 nghìn chức sắc, khoảng 135 nghìn chức việc, hơn 29 nghìn cơ sở thờ tự. Ngoài ra, cơ quan Nhà nước đã cấp hàng trăm ha đất để xây dựng các cơ sở thờ tự như: TP. Đà Năng đã giao hơn 9.000m2 đất cho Tòa Giám mục Đà Nẵng; tỉnh Đắk Lắk giao hơn 11.000 m2 đất cho Tòa Giám mục Buôn Ma Thuột, TP. Hồ Chí Minh giao 7.500 m2 đất cho Tổng liên Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) xây dựng Viện thánh kinh thần học… Chỉ tính riêng năm 2022, chính quyền các cấp đã cấp phép xây dựng, sửa chữa, cải tạo cho 152 cơ sở, thờ tự tôn giáo. Qua đó, các cơ sở thờ tự tôn giáo ngày càng được xây dựng khang trang cùng nhiều cơ sở xã hội, từ thiện đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện công tác xã hội.
Ngoài ra, các cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo với các cấp học như: Học viện Phật giáo, Chủng viện Thiên chúa Giáo và các Trường cao đẳng, trung cấp của các tôn giáo đã và đang hoạt động với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương. Trong hàng giáo phẩm của các tôn giáo hiện nay, rất nhiều vị được Nhà nước tạo điều kiện để đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước trên thế giới. Các ấn phẩm về tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong in ấn và phát hành. Riêng năm 2022, cơ quan chức năng đã cấp phát 140 xuất bản phẩm với 684.250 bản tin,…
Mỗi năm, ở Việt Nam có khoảng 8.500 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức như Đại lễ phật Đản Liên hợp quốc vào năm 2008, 2014; Đại lễ kỷ niệm 72 năm khai sáng Phật giáo Hòa hảo; Đại lễ kỷ niệm 3 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và đón nhận Huân chương Hồ Chí minh… và kể từ năm 2011, Vatican đã cử đại diện không thường trú tại Việt Nam và đặc phái viên không thường trú thực hiện nhiều chuyến thăm tới hầu hết các tỉnh thành ở Việt Nam. Có thể nói, hòa chung với sự hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển mọi mặt của đất nước, hoạt động tôn giáo ở Việt Nam ngày càng sôi động, những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn giáo tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động tôn giáo.
Trong những năm qua, bằng các hoạt động giao lưu với các tổ chức tôn giáo đồng đạo trên thế giới như trao đổi đoàn ra nước ngoài học tập, dự hội nghị, hội thảo, tham gia các diễn đàn tôn giáo thế giới và khu vực; đăng cai, phối hợp tổ chức các hội nghị, diễn đàn tôn giáo trong khuôn khổ Liên hợp quốc, ASEAN, quốc tế… đã góp phần tăng cường vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và thúc đẩy ngoại giao Nhân dân. Trong đó có nhiều hoạt động giới thiệu đất nước, con người, lịch sử, văn hóa của Việt Nam đến với bạn bè thế giới, khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam là tôn trọng và đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo; quy tụ kiều bào có tín ngưỡng, tôn giáo trong nước và nước ngoài đoàn kết để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đấu tranh, phản bác các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc chính sách tôn giáo của Việt Nam.
Qua đây có thể khẳng định, những chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước và thực tiễn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam ngày càng sôi động đã củng cố niềm tin của chức sắc, tôn giáo và đồng bào có đạo với Đảng, Nhà nước ta, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, phát huy dân chủ cơ sở, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng trong các tầng lớp Nhân dân nói chung và chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo nói riêng, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
An Tây - Tổng hợp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét